Cuối năm 2006, trong lúc lục đống giấy tờ cũ để tìm tài liệu cho một bài viết mới, tôi tình cờ đọc lại mấy bức thư của nhà văn Mai Thảo (1927-1998) gửi cho tôi. Mai Thảo mất chưa tới mười năm. Vậy mà những bức thư ấy, dù được giữ gìn khá cẩn thận, giấy đã bắt đầu ố và một số nét chữ đã bắt đầu bị phai hay nhoè đi rồi.
Cầm những bức thư của Mai Thảo, quên bẵng cái đề tài mình đang định tìm tòi, tôi cứ tần ngần nghĩ ngợi mông lung.
Về Mai Thảo.
Về một số nhà văn và nhà thơ khác mà tôi quen biết.
Và về thư như một thể loại văn học.
*
Trong hơn nửa thế kỷ vừa qua, thư bị tấn công dồn dập: thoạt đầu, với sự ra đời của điện thoại, sau, của điện thoại di động, và, quan trọng nhất, của điện thư (email) và các hình thức chuyện trò qua internet. Hiện nay, dĩ nhiên vẫn còn khá nhiều người ở nhiều nơi trên thế giới tiếp tục viết thư cho nhau. Nhưng, không còn hoài nghi gì nữa, số lượng những người duy trì được thói quen viết thư như thế càng ngày càng hiếm; tuổi tác của họ càng ngày càng cao: một lúc nào đó, có lẽ không lâu lắm nữa đâu, thư chỉ còn là một hoài niệm.
Ở Việt Nam, thậm chí thư không tồn tại được như một hoài niệm. Bởi nó chưa từng hiện hữu một cách công khai, đàng hoàng, chính thức; hoặc nếu hiện hữu, sự hiện hữu ấy cũng quá mờ nhạt, không hình thành hẳn một thể loại riêng. Những chiếu, biểu, tấu, sớ, hay ngay cả những Quân trung từ mệnh, những Hải ngoại huyết thư, những Thư thất điều... tuy lừng lẫy một thời, vẫn nặng tính chất chính trị. Giá trị của chúng rõ ràng là lệch về phía lịch sử hơn là phía văn học.
Những bức thư, thực sự là thư, của các nhà văn và nhà thơ, được xuất bản rất ít. Phần lớn chỉ là những trích đoạn. Và những trích đoạn ấy cũng khá hoạ hoằn. Lâu, lâu lắm mới bắt gặp một vài trích đoạn ngắn trên báo chí. Chỉ gần đây, tôi mới thấy một tuyển tập thư dường như là đầu tiên bằng tiếng Việt được in: tập Hồi ức tình yêu của vợ chồng nhà văn Vũ Tú Nam và nhà báo Thanh Hương (nxb Lao Ðộng, Hà Nội, 2001). Tiếc, đó không phải là tập thư hay. Không hay ở nhiều khía cạnh.
Thứ nhất, cả Vũ Tú Nam lẫn Thanh Hương đều không phải là những văn tài lớn. Thư họ không có cái đẹp lấp lánh ở ngôn ngữ. Thứ hai, thời gian họ viết thư cho nhau, kéo dài cả nửa thế kỷ, là thời gian chiến tranh khốc liệt, ảnh hưởng của chủ nghĩa Mao và chủ nghĩa Stalin đè bẹp ý thức cá nhân: thư của cặp tình nhân và cặp vợ chồng ấy biến thành thư của hai cán bộ tận tuỵ, đầy “tính đảng”, và cũng do đó, khá nhạt nhẽo.
Điều tôi cảm thấy thú vị nhất không nằm ở bản thân tập thư mà ở hoàn cảnh ra đời của nó: mặc dù Vũ Tú Nam và Thanh Hương nâng niu gìn giữ hơn 500 bức thư của họ trong cả nửa thế kỷ, thế nhưng, như lời giới thiệu ở đầu sách, người đầu tiên nhận ra ý nghĩa và khuyến khích xuất bản những bức thư ấy lại là một nhà văn nữ người Mỹ từng sống lâu năm ở Việt Nam: Lady Borton.
Nhà nghiên cứu, nhà báo Lady Borton
Chính Lady Borton là người đầu tiên phát hiện ra giá trị của những bức thư tình riêng tư và cũ kỹ ấy, đã khuyến khích Vũ Tú Nam và Thanh Hương chọn lọc và xuất bản, cuối cùng, đã đứng ra viết lời giới thiệu cho tập thư tình ấy.
Ngoài Lady Borton, người thứ hai động viên việc xuất bản các bức thư ấy cũng lại là một người Mỹ, ông Edwin Stephenson, tác giả cuốn Journey of the Wild Geese vốn tập hợp những bức thư mà ông và vợ ông gửi cho nhau trong thời gian hoạt động từ thiện ở châu Âu sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2. Vũ Tú Nam và Thanh Hương kể: “Khi được Lady kể về cái ‘kho’ thư từ của chúng tôi, Edwin gửi tặng ngay cuốn sách mới in chưa ráo mực, nhằm động viên chúng tôi nên soạn các bức thư và cho công bố.”
Có thể nói lời giới thiệu của Lady Borton và sự động viên của Edwin Stephenson không phải chỉ là lời giới thiệu và động viên của một, hai cá nhân mà còn là, nếu không muốn nói trước hết là, lời giới thiệu và động viên của một nền văn hoá, cái nền văn hoá, ở đó, người ta có thể dễ dàng thấy được ý nghĩa sử liệu, văn hoá, và cả văn học ở những bức thư ngỡ như riêng tư và thầm kín nhất.
*
Truyền thống trao đổi thư từ ấy kéo dài mãi về sau. Ở vô số nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, bên cạnh đam mê sáng tác còn có đam mê viết thư.
Nghĩ đến những người viết thư nhiều ở Tây phương, trong trí nhớ tôi hiện ra ngay một số tên tuổi, như: bà de Sévigné, tác giả của hơn một ngàn bức thư gửi cho con gái; Patrick White, nhà văn Úc, tác giả của khoảng hơn ba ngàn bức thư, chưa kể mấy trăm bức thư khác gửi cho mẹ và cho bạn bị ông thu hồi và đốt hết; Rainer Maria Rilke, tác giả của khoảng mười ngàn bức thư gửi cho nhiều người khác nhau. Henry James để lại hơn mười lăm ngàn bức thư; Voltaire để lại hơn hai chục ngàn bức thư; đặc biệt Lewis Carrol, tác giả cuốn Alice in Wonderland, trong vòng 37 năm, viết cả thảy gần một trăm ngàn bức thư!
Theo Mary V. Dearborn, trong cuốn The Happiest Man Alive, mỗi ngày nhà văn Henry Miller bỏ ra khoảng hai hay ba tiếng đồng hồ để viết thư. Ngoài 70 tuổi, Miller yêu một cô gái Trung Hoa tên Lisa Lu, lúc ấy mới khoảng 30 tuổi: trong vòng chín tháng, Miller viết cho cô 224 bức thư. Liên quan đến thư tình, Graham Greene viết còn nhiều hơn cả Henry Miller: trong vòng khoảng 30 tháng, ông viết cho Vivien, người yêu của ông, 2000 bức thư. Có ngày ông viết tới ba bức! Mà không phải chỉ có thư tình. Greene viết đủ loại thư. Trung bình mỗi năm ông viết 2000 bức thư. Tổng cộng số thư còn lại của ông lên đến hàng chục ngàn bức.
Không phải chỉ viết thư riêng cho nhau, nhiều người trong giới cầm bút Tây phương còn chọn cách trình bày các luận điểm của mình dưới hình thức những bức thư ngỏ gửi công khai cho ai đó: ở đây, thư được dùng như một thủ pháp nhằm phát huy giọng điệu tâm tình hầu thuyết phục người đọc không phải ở phương diện nhận thức mà còn cả ở phương diện tình cảm. Cũng có một số nhà văn đã sử dụng thư như một hình thức chính để dẫn dắt câu chuyện và phân tích nội tâm nhân vật trong các tác phẩm tự sự của mình.
Ovid, sinh năm 43 trước Công nguyên và mất năm 18 sau Công nguyên, tức lớn tuổi hơn hai Bà Trưng ở ta đã viết cuốn Epistulae Heroidum (hay Heroides), dưới hình thức mười tám bức thư của những phụ nữ nổi tiếng trong thần thoại Hy Lạp gửi cho những người chồng hay những người yêu xa vắng của họ, và ba bức thư hồi đáp của chồng hay người yêu họ. Hình thức tương tự cũng xuất hiện lại trong tác phẩm của Jean-Jacques Rousseau:
La nouvelle Heloise, của Alphonse Daudet trong cuốn Lettres de mon Moulin, của Samuel Richardson trong cuốn Pamela, của Laclos trong cuốn Les liaisons dangereuses. Cuốn tiểu thuyết Lady Susan của Jane Austen (1775-1817) được cấu trúc bằng 41 bức thư và một lời kết luận ngắn. Jane Austen còn có một cuốn tiểu thuyết khác, cuốn Elinor and Marianne, tiền thân của cuốn Sense and Sensibility, cũng được viết dưới hình thức những bức thư.
Tất cả những hiện tượng kể trên, từ việc viết thư để thông tin, để thuyết phục và để tâm tình, cũng như việc sử dụng thư như một hình thức tự sự chính, đã nói lên ý nghĩa quan trọng của thư từ trong nền văn học và văn hoá Tây phương. Về phương diện sử học, chúng là những tư liệu quý báu, không những soi sáng nhiều vẻ đẹp vốn dễ bị xem là bí ẩn trong tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ mà còn khai mở nhiều góc cạnh khuất khúc trong cuộc đời của các nhà văn, nhà thơ ấy cũng như, với những mức độ khác nhau, cả cái thời đại mà họ sống và sáng tác. Một phần nhờ những bức thư như thế, ở Tây phương, tài liệu có tính văn học sử bao giờ cũng giàu có đến độ khiến chúng ta phải thèm thuồng, thậm chí, ghen tị. Về phương diện nghệ thuật, thư từ là một thủ pháp đắc dụng để bộc lộ những gì u uẩn trong nội tâm và dễ dàng khơi động sự đồng cảm ở người đọc. Có thể nói, một cách tổng quát, thư từ là một thể loại văn học với một lịch sử riêng và những đặc trưng nghệ thuật và mỹ học riêng, ở đó, chúng ta được hưởng những cảm giác thích thú theo những hơi văn dìu dặt hay những triều tư tưởng dào dạt từ những cây bút không những tài hoa trong diễn đạt mà còn cực kỳ thông minh và tinh tế trong cách nhìn văn học cũng như nhìn cuộc đời.
*
Đó là chuyện ở Tây phương.
Còn ở Việt Nam? Thư, với tư cách một thủ pháp nghệ thuật và một hình thức tự sự, cũng đã được sử dụng; không nhiều, nhưng có, từ Nhất Linh, trong truyện ngắn “Mười năm qua” đến Toàn Phong trong cuốn Đời phi công (1960) và một số nhà văn khác, trong đó có Võ Phiến với những “Thư nhà” (1962), Thư gửi bạn (1976) và Lại thư gửi bạn (1979), v.v...
Nhưng liên quan đến thư, với tư cách một hình thức trao đổi riêng tư giữa giới cầm bút với nhau, có ba sự kiện không thể phủ nhận được: Một, viết thư chưa phải là một thói quen của đa số người cầm bút; hai, việc sưu tập và bảo quản thư từ của giới cầm bút chưa phải là một thói quen của xã hội, kể cả ở giới trí thức; và ba, việc xuất bản những bức thư ấy chưa phải là một thói quen trong sinh hoạt văn học.
“Chưa”, trong trường hợp này, cũng có nghĩa là không, không bao giờ: với sự phổ cập của các phương tiện truyền thông hiện đại, thói quen viết thư cho nhau lại càng không có cơ hội để nẩy nở. Bởi vậy, những nhà văn và nhà thơ được xem là viết thư nhiều nhất từ đầu thế kỷ 20 đến nay cũng dễ dàng trở thành những người viết thư nhiều nhất trong cả lịch sử văn học Việt Nam nói chung: họ là những thế hệ đầu tiên và đồng thời, có lẽ, cũng là những thế hệ cuối cùng được nuôi dưỡng trong văn hoá thư từ. Họ mới xuất hiện chưa bao lâu đã đối diện ngay với nguy cơ tuyệt chủng. Cũng bởi vậy, những bức thư của các thế hệ này chắc chắn là những di sản cực kỳ quý báu, chỉ xuất hiện một lần. Rồi thôi. Trước: không có. Từ nay về sau: càng không thể có.
Trong số những bức thư đang dần dần biến mất ấy chắc chắn sẽ có những bức thư chứa đựng những tài liệu vô giá liên quan đến những cây bút tài hoa nhất và những vấn đề quan trọng nhất của văn học Việt Nam đương đại. Mất chúng, nhiều bí ẩn sẽ vĩnh viễn là những bí ẩn. Vĩnh viễn.
Đối diện với tình trạng ấy, chúng ta có thể làm được gì chăng?
Dĩ nhiên chỉ có một cách: sưu tập và in lại các bức thư mà họ viết. Bản thân tôi, từ lâu, ngay trong thời gian tôi viết cuốn Võ Phiến (Văn Nghệ, 1996) (1), lúc tôi nắm trong tay hàng trăm bức thư thật thú vị của Võ Phiến, tôi đã có ý nghĩ: phải tập hợp và, một lúc nào đó, công bố những bức thư ấy (2).
Ý định ấy trở thành một sự thôi thúc càng mạnh thêm khi tôi nhớ, cách đây mấy chục năm, nhà văn Tam Ích từng có lần đề nghị với nhà văn Vũ Bằng là hai người sẽ viết và in chung một tập thư, dự định lấy nhan đề là Thư giữa Vũ Bằng và Tam Ích. Tập thư ấy vĩnh viễn không bao giờ ra đời, thậm chí có lẽ chưa kịp bắt đầu, vì chỉ mấy tháng sau đó Tam Ích đã tự tử. Để đưa đầu vào được sợi dây thòng lọng lơ lửng từ trần nhà, ông đã đứng lên trên một chồng sách thật cao.
Nó lại càng mạnh mẽ hơn nữa khi tôi cầm trên tay những bức thư của Mai Thảo tình cờ nhìn thấy trong đống hồ sơ cũ. Mai Thảo mất vào tháng giêng năm 1998. Đến lúc ấy, cuối năm 2006, mới được chín năm. Mà giấy đã bắt đầu vàng và chữ cũng đã bắt đầu phai rồi.
Nhanh vậy sao?
***
Chú thích:
(1) Người Việt mới tái bản dưới tên mới: Võ Phiến, Một Đời Trăn Trở.
(2) Xem cuốn Thư Võ Phiến do Nguyễn Hưng Quốc biên tập, Người Việt xuất bản năm 2015. Sách có thể mua trên Amazon.
(1) Người Việt mới tái bản dưới tên mới: Võ Phiến, Một Đời Trăn Trở.
(2) Xem cuốn Thư Võ Phiến do Nguyễn Hưng Quốc biên tập, Người Việt xuất bản năm 2015. Sách có thể mua trên Amazon.
Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét